phân tích bài ca ngất ngưởng học sinh giỏi

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng". Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào "ngựa ngựa xe xe" nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả Phan tich Bai ca ngat nguong. Đề bài: Em hãy phân tích bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công TRứ Nguyễn Công Trứ được coi là nhà thơ ngông của nền văn học - Giới thiệu bài viết Phân tích bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ mới nhất. Phân trích trọn vẹn các nôi dung quan trọng về tác phẩm cần ghi nhớ để hoàn thành tốt các câu hỏi cùng những đề văn liên quan đến bài thơ này: 1. Cảm hứng chủ đạo - Tập trung qua hai từ "ngấn ngưởng" - tư thế cao hơn thực tế nhưng lắc lư, nghiêng ngả, không bền vững Phân tích Bài ca ngất ngưởng - bài 2. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859) là một ông quan lớn văn võ toàn tài dưới triều Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Phân tích lối sống của tác giả bài thơ Bài ca ngất ngưởng dưới đây được THCS Thành Công.com tổng hợp và sưu tầm gồm các bài văn mẫu lớp 11 hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra môn Ngữ văn 11 sắp tới Frau Sucht Mann Sie Meint Es Ernst. Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng là một trong những yêu cầu cơ bản đối với học sinh sau khi học tác phẩm này. Thực hiện yêu cầu này không khó nếu các bạn nắm được những vấn đề thuộc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Sau đây Kiến Guru xin gợi ý các bạn một số nội dung cần có trong bài viết để các bạn có một nguồn tư liệu tham khảo và làm đề phân tích Bài ca ngất ngưởng thật tốt nhé! Sơ lược về tác giả, tác phẩm Trong bài phân tích bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởng này, đầu tiên chúng ta nên giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Công Trứ. Tác giả Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ 1778 – 1858 là người con của vùng đất học vang danh – Hà từ bé, ông đã tỏ rõ khí chất của một con người bản lĩnh, cứng cỏi. Sau khi đỗ đạt vinh quy, ông có hai mươi tám năm phụng sự cho triều đình. Dù chỉ là một vị quan, nhưng Nguyễn Công Trứ luôn thể hiện tư tưởng, chính kiến của mình chứ không hề nhân nhượng trước bất kì phe phái, thế lực nào trong chốn quan trường. Đối diện với nhiều thăng trầm và dù tính tình phóng khoáng, ngất ngưởng nhưng trước sau như một, Nguyễn Công Trứ vẫn là người hết lòng vì dân, vì nước. Biểu hiện là trong suốt quá trình làm quan hay đến khi lui về sống cuộc sống riêng của mình, ông vẫn rất nhiệt tâm với công cuộc khai khẩn, tu bổ nhà chùa hay dẹp giặc ngoại xâm. Đặc biệt khi về già, ở tuổi bảy mươi, ông vẫn thể hiện khí khái của mình bằng việc tự nguyện xin xông pha ra trận địa để quyết chiến với kẻ thù. Tác giả bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởng Nguyễn Công Trứ Về sáng tác thơ văn, đa phần các tác phẩm của Nguyễn Công Trứ đều viết bằng chữ Nôm nhưng được biểu hiện bằng nhiều thể loại khác nhau phú, hát nói, thơ Đường luật. Dấu ấn tác giả thể hiện đặc sắc nhất trong các tác phẩm ấy chính là nét phong lưu tài tử và tiết tháo khảng khái của ông. Tác phẩm Bài Ca Ngất Ngưởng Bài phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng xin được tiếp tục với phần giới thiệu về tác phẩm. Bài ca ngất ngưởng được viết bằng thể loại hát nói. Tác phẩm được đánh giá là một trong những bài thơ xuất sắc của Nguyễn Công Trứ ở thể loại này. Bài ca ngất ngưởng được ra đời trong hoàn cảnh có tính dấu mốc quan trọng trong cuộc đời nhà thơ, đó là khi ông đã cáo quan về hưu. Bài ca ngất ngưởng được viết để người đọc có dịp nhìn lại hành trình cuộc đời của tác giả. Hướng dẫn phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng Việc phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng sẽ được triển khai qua bốn vấn đề sau Cảm hứng chủ đạo của tác giả Cảm hứng chủ đạo của bài thơ được gợi lên bởi từ “ngất ngưởng”. Từ này mang ý nghĩa gợi tư thế không chắc chắn, dễ bị ngã đổ, chao nghiêng. Trong bài thơ, “ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ diễn tả mang hàm ý nói về tư thế, thái độ sống phóng khoáng, tự do và có phần ngang tàng của ông. Qua cảm hứng ấy, có thể thấy phần nào thấy được việc Nguyễn Công Trứ tự nhận thức như thế nào về bản lĩnh, khí khái của mình. Đó cũng nét tính cách mà ông bộc lộ trong suốt quá trình làm quan và kể cả khi đã cáo lui về hưu. Nói về cảm hứng chủ đạo là nội dung quan trọng của việc phân tích Bài ca ngất ngưởng. Sáu câu thơ đầu Trong sáu câu thơ đầu, nhà thơ đã tóm tắt sơ lược về cuộc đời làm quan của mình. Mở đầu, ông tuyên bố suy nghĩ của mình về chí làm trai Vũ trụ nội mạc phi phận sự Câu thơ ấy có nghĩa là trong trời đất, dường như không có điều gì mà tác giả không xem là phận sự của mình. Bên cạnh đó ông xem việc “vào lồng” chính là cơ hội để ông bộc lộ tài năng, tính cách của bản thân hơn việc xem đó là thử thách, là trói buộc. Từ quan niệm đó của mình, Nguyễn Công Trứ đã lược thuật về những nhiệm vụ ông đảm đương như Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Thái độ khi khoe danh vị chức tước bộc lộ rõ là sự tự tin, bởi ông làm được những điều đó đều dựa vào tài năng, sức lực của mình. Ông có thế mạnh cả về văn chương lẫn tài dùng binh. Đó chính là cơ sở để nhà thơ khẳng định lí tưởng cũng như tài năng, công trạng của chính mình. Mười câu thơ tiếp theo Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ giới thiệu về sở thích của mình cũng như quan niệm của ông về cách sống ở đời. Đầu tiên, ông thể hiện niềm vui nếu được cưỡi bò đeo đạc ngựa hay đi chùa mà theo sau là gót tiên. Đó đều là những sở thích có phần khác thường, lạ lẫm thậm chí là ngông nghênh. Nhưng dẫu cho “bụt có nực cười”, ông vẫn một mực giữ thái độ “ngất ngưởng” và coi là tôn chỉ của cuộc đời. Sau đó, Nguyễn Công Trứ gửi gắm vào những dòng thơ quan niệm sống cụ thể. Ông nói về chuyện “được mất”, đặt mình vào thế đối sánh với thái thượng nhằm nói lên sự bất cần, không màng đến dư luận, đến sự dèm pha của người đời. Ông nói về thú vui ca, tửu, cắc, tùng để tự sự về cảm giác thích thú, vui vẻ trước cuộc sống muôn màu mà ông khám phá. Ông cũng nói về việc sống thoát tục nhưng không phải là Phật, cũng chẳng phải là tiên. Tất cả những điều nói trên nhằm thể hiện một điều, đó là quan niệm mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ. Ba câu thơ cuối Những câu thơ cuối là một sự khẳng định một lần nữa về bản thân. Trước hết đó là sự khẳng định về tài năng và phẩm chất trung kiên của bản thân. Ông dẫn ra các trường hợp về những người nổi tiếng có chiến công hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,… như một sự đối chiếu để nói về tài năng cũng như sự trung thành của một bề tôi. Thứ hai, cái ông muốn khẳng định hơn cả có lẽ là sự “ngất ngưởng” – đây cũng là điều được ông thể hiện thường xuyên trong bài. Ông bảo “Trong triều ai ngất ngưởng được như ông” như một lời tuyên ngôn về cá tính của mình – ông sẽ sống đúng với tinh thần ngất ngưởng ấy, dù có vượt ra ngoài quan điểm hà khắc của giáo lí Nho gia. Làm rõ ba câu cuối cũng chính là phần khép lại nội dung của bài phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Nghệ thuật độc đáo Về nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng, các bạn học sinh cần phân tích làm rõ những điểm đặc sắc về nghệ thuật sau sự thành công trong việc sử dụng thể hát nói, giọng điệu trào phúng, tự tin và bên cạnh đó là việc dẫn dắt những điển tích, điển cố. Khi phân tích những đặc điểm nói trên, cần chỉ rõ vị trí cụ thể của nó và nêu hiệu quả sử dụng các biện pháp nói trên đối với tác phẩm, các bạn nhé! Xem thêm Phân Tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Chính Xác Và Đầy Đủ Nội Dung Bài tập làm văn phân tích Bài ca ngất ngưởng lớp 11 của Nguyễn Công Trứ bao gồm dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích Bài ca ngất ngưởng hay nhất. Dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng 1. Mở bài – Giới thiệu về Nguyễn Công Trứ. – Giới thiệu về Bài ca ngất ngưởng – một bài thơ hay. 2. Thân bài – Phân tích bài thơ theo bố cục – Chú ý ở mỗi phần cần làm nổi bật nội dung chính, tư tưởng của tác giả là gì? Nội dung, tư tưởng đó mới mẻ, tiến bộ ở chỗ nào? ý thức trách nhiệm cá nhân đối với cuộc đời, ý thức được giá trị bản thân; sống phóng khoáng, tự do tự tại; lòng yêu nước tư tưởng trung quân ái quốc… – Song song với nội dung tư tưởng, ở mỗi phần cũng cần làm rõ các biện pháp nghệ thuật. Biện pháp gì? Tác dụng? – Tổng kết về giá trị khái quát, nổi bật nhất của tác phẩm Nội dung, nghệ thuật 3. Kết bài – Khẳng định thành công và giá trị tác phẩm thể hiện quan điểm sống mới mẻ, tiến bộ; lòng yêu nước sâu sắc. – Khẳng định vị trí tác giả trong nền Văn học dân tộc. Bài văn mẫu phân tích Bài ca ngất ngưởng Phân tích Bài ca ngất ngưởng – bài 1 Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói Văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Ở họ văn với người là một, con người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất, nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một Nguyễn Công Trứ tự họa. Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất ngưởng”. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà lài cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn. Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải nhận sự của ông “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tói “Chí nam nhi”, “Chí làm trai”, “Chí tang bồng”, “Phận sự làm trai”, “Nợ nam nhi”, “Nợ tang bồng”… Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà nho chân chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng một giọng diệu “ngất ngưởng”, “ngang tàng”. Cứ xem cách xưng hô ở câu thơ thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là “Ông Hi Văn”, tự giới thiệu chính mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như “đã vào lồng”, ta cũng đủ thấy rõ thái độ người viết vừa như trang nghiêm lại vừa như “u mua”, hài hước. Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm quan đương chức “Khi Thủ khoa, khi Tham tá, khii Tổng đốc Đông”. Hoặc “Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng; có khi về Phủ doãn Thừa Thiên” mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách “ngất ngưởng” càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã “tháo cũi, sổ lồng”, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông càng trở nên “ngất ngưởng”. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống có vẻ khác người, ngược đời Người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gói tiên theo đủng đỉnh một đôi dì Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng” Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời “Được mất dương dương người Tái thượng Khen chề phơi phới ngọn đông phong”. Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa Tái ông thất mã, Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong; hãy “quảng gánh lo đi mà vui sống” Lâm Ngữ Đường. “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật, không Tiên, không vương tục”. Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều luật lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, “ngông nghênh” kiểu Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự thách thức, một sự “chòng ghẹo” cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy của ông được bắt nguồn từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa “Chẳng Thái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”. Chẳng thế mà ông đau đáu một tấm lòng trước sau thủy chung như nhất “Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ chung”. Câu thơ rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào thời kỳ mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh thần cho cả một tầng lớp nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ “Đã sinh ra ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông” Ông tâm niệm và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang thơ của chính ông. Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Câu thơ buông lấp lửng vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thìa; vừa như là lời tự bạch của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời… Đúng như câu thơ và cả bài thơ cũng “ngất ngưởng” như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay. Phân tích Bài ca ngất ngưởng – bài 2 Nguyễn Công Trứ 1778 – 1859 là một ông quan lớn văn võ toàn tài dưới triều Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn Ninh Bình và Tiền Hải Thái Bình. Người ta cũng không quên một nhà thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời và khẳng định cái tôi bản ngã của cụ Thượng Trứ. Để làm rõ được cái tôi ngất ngưởng của mình, nhà thơ đã chọn thể hát nói bằng chữ Nôm – một thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra không phải để đọc mà để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo đà cảm xúc mà luyến láy cho phù hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc điệu. Nếu tính cả nhan đề, bài thơ có đến năm lần dùng từ “ngất ngưởng”, được đặt ở cuối mỗi đoạn như nốt nhấn của bài ca. Đây là cái dáng vẻ của một tinh thần ngạo nghễ, tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là tư thế chung của toàn bài. Mở bài ta bắt gặp sự khác đời trong cách tự giới thiệu về mình Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Câu thơ chữ Hán tạm dịch là Phàm những việc trong trời đất này không có việc gì không phải là phận sự của ta – Tiếp theo tác giả dùng một loạt từ Hán – Việt cùng thủ pháp liệt kê, kể cụ thể những chức tước danh phận của mình Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…/ Lúc bình Tây, cờ đại tướng/ Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên… Nhịp thơ trầm bổng nhấn nhá của lối ca trù nghe thật êm đềm nhẹ nhàng như mặt sông mùa xuân. Một sự khẳng định tài năng kiệt xuất của mình thật khéo mà cũng thật kiêu ngạo khác đời. Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng không hề né tránh. Ngay cả cách đưa biệt hiệu “ông Hi Văn” vào bài cũng chẳng giống ai. Hi Văn – chữ Hán có nghĩa là nhà văn hiếm. Tự gọi mình một cách trang trọng là ông và nhận mình như vậy thì chỉ có ông. Nguvễn Công Trứ đã phá vỡ tính phi ngã của thi pháp trung đại, không chịu ép mình vào cái ta chung của cộng đồng, xã hội. Ở câu cuối ta thấy ông còn tự tách mình ra, đối lập mình với cả tầng lớp phong kiến. Tất nhiên ông có cái thế của một bậc đại nhân quân tử để viết như vậy. Nhưng nói được như ông ở thơ văn trung đại không nhiều. Nếu có chăng, trước đó có Nguyễn Trãi với một tình yêu lãng mạn ở Cây chuối, Phạm Thái đau đớn xót xa đến tuyệt vọng trước cái chết của người yêu trong Văn tế Trương Quỳnh Như. Gần nhất có cách xưng danh khắng định mình của Hồ Xuân Hương Này của Xuân Hương mới quệt rồi – Mời trầu, hay Nguyễn Du Thiên hạ ai người khóc Tố Như – Độc Tiểu Thanh kí. Các nhà văn ấy vẫn còn nhún nhường, khép nép hoặc còn bóng gió, chung chung. Cái ngất ngưởng còn ở lối sống, cách sống khác đời. Nguyễn Công Trứ là người biết sống. Khi trai trẻ, hoạt động hăng hái hết mình theo quan niệm nhập thế hành đạo tích cực của nho gia, Trở về già thì sống nhàn hạ hưởng lạc. Một trong những thú vui của ông là nghe hát ả đào còn gọi là ca trù. Người ta lên xe xuống ngựa xênh xang thì cụ Thượng Trứ ngao du sơn thủy, thưởng lãm chùa chiền cùng các cô đầu bằng xe bò. Mà là bò cái vàng với cái mo cau che sau đuôi. Cụ giải thích Để che miệng thế gian Điển viên dạo chiếc xe bò cái Sẵn chiếc mo che miệng thế gian Sự ngông ngạo này chính ông đã nhận xét Bụt cũng nực cười… Nguyễn Công Trứ đã vượt ra khỏi lẽ sống được tầm thường ở đời Được mất dương dương người tái thượng Khen che phơi phới ngọn đông phong Khi cơ, khi tửu, khi cắc khi tùng Không phật, không tiên, không vướng tục Như trên đã nói, Nguyễn Công Trứ tự tách mình ra khỏi cái trật tự xã hội nhố nhăng, ô uế, bẩn thỉu, nhiều kẻ vỗ ngực là quân tử nhưng thực chất chỉ là hạng cây vông Tuổi tác càng già càng xốp xáp/ Ruột gan không có, có gai chông Vịnh cây vông. Ngông ngạo nhưng ở hai bài này Nguyễn Công Trứ không rơi vào tình thế bi quan bế tắc hay phá phách bất cần đời như một số nhà văn lãng mạn sau này. Mục đích sống của ông rất rõ ràng Phò vua giúp nước Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung Hay như có lần đối lại ý của một nhà sư ông hóm hỉnh nêu Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ Không quân thần phụ tử đếch nên người. Nói khác đi, sự ngất ngưởng của ông ta là để nhằm lật tung cái trật tự xã hội phong kiến đương thời tưởng như yên ả bằng phẳng nhưng thực chất thối nát, mục ruỗng đến cùng cực. Ông không muốn mình bị “đồng hóa” cùng hội cùng thuyền với lũ tham quan vô lại. Vì vậy tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến có ngạo nghễ nhưng không ngoa ngôn, lộng ngữ, vừa cụ thể lại vừa có tính biểu tượng, vừa có chút trào phúng lại vừa mang tính triết lý, thể hiện quan niệm sống của nhà thơ. Thơ văn Nguyễn Công Trứ vốn phóng khoáng ngang tàng như bản chất con người ông. Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ hay được nhiều người nhắc đến với sự tán thưởng thích thú. Một phần bởi bài thơ giàu tính nhạc, nhưng phần lớn bởi bản lĩnh vững vàng cứng cỏi của con người tài năng xuất chúng này. Nguyễn Công Trứ đã thổi một luồng sinh khí mới lạ cho văn chương đương đại, đưa yếu tố cá nhân, cái tôi cần được giãi bày vào trực tiếp trong văn chương. Đó cũng là một trong những bước đệm quan trọng để văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX có những bước chuyến mình vượt bậc, bước qua cái ta, giải phóng yếu tố cá nhân, cho văn chương Việt Nam tiến kịp nền thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật hiện đại thế giới nói chung. Phân tích Bài ca ngất ngưởng – bài 3 Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà, Nguyễn Công Trứ viết “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt lên thế tục bình thường! Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho Phận sự của kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình. Nhà thơ tự xưng mình là ông – Ông Hi Văn – lần lượt làm các việc thi đỗ thủ khoa, khi làm Tham tán Quân vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại Tướng Bình Tây, lúc làm Phủ doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì luôn luôn bị giáng chức. Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai. Mặc dầu trên đường công danh có những lúc thăng trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy, ông gọi là cái “lồng”. Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820-1848, ông đã tự chứng minh cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che giấu khi tự thuật về mình. Một tay ngất ngưởng trên hoan lộ “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!”. Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu. Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi, hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa, khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến nỗi “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!” Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chất riêng, đó là lối hưởng lạc nhập tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng không tục, nhưng vần trọn nghĩa vua tôi “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục”. Hưởng nhà hành lạc chỉ là thời kì sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên hoan lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề có một ý tưởng bất mãn. Bởi vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thán, trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn, lúc chống gậy đến chốn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đửc thứ 12 ông nghe tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Nẵng, không quản ngại thân già, ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ kêu vua xin Cầm quân chống giặc. Nhưng vua không cho, vì thây ông đã quá già nua tuổi tác. Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi phận về mình “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí kh픓ngất ngưởng”. Chẳng những ông không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái “đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm tắt lại có bốn cái “ngất ngưởng” làm nổi bật trong đời ông. Trên đây là bài tập làm văn phân tích Bài ca ngất ngưởng, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình! Phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Bình giảng bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương Hướng dẫn phân tích Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã Nợ tang bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn… Phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn ướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc. Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng. Kìa núi nợ phau phau mây trắng. Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong, Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú. Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới. Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm hhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ. Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất như bên trên đã giải bày Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông. Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng. Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa đỗ đầu cử nhân khoa thi hương, làm Tham tán quân sự…chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An Hải Dương và Quảng Yên, một chức quan to trong tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây xứ Tây Nam nước ta mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?. Cho nên, câu tổng kết Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng. Phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Tiếp theo là một hành ngất ngưởng hơi bất thường người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ran gay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng. Ba là ngất ngưởng cả với Bụt Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “ tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến But không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già. Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê…tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng Được mất/ dương dương người thái thượng Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao. Không phật, không/ Tiên, không vướng tục Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ. Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chĩ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ bi thương , hùng tráng, cười cợt… Giọng điệu bài thơ mang nét độc đáo của tác giả tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc. Tìm hiểu chung a. Tác giả Cuộc đời Nguyễn Công Trứ 1778 – 1858, tự Tồn Chất, hiệu Hy Văn, biệt hiệu Hi Văn. Xuất thân gia đình nhà nho nghèo ở Uy Viễn, Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh Năm 1919 Ông thi đỗ Giải Nguyên, được bổ làm quan nhưng hoạn lộ không bằng phẳng, thăng giáng thất thường. Là người học giỏi, có tài năng trên nhiều lĩnh vực. Có cá tính mạnh mẽ, không chịu sống theo khuôn phép phong kiến, luôn khẳng định mình. Sự nghiệp Sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm với thể loại yêu thích là hát nói Là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó b. Tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác Được Nguyễn Công Trứ viết sau năm 1848 - năm ông cáo quan về hưu Thể loại Thể hát nói Bố cục 3 phần Đọc - hiểu văn bản a. Ngất ngưởng trên hành trình hoạn lộ Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng, Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc Bình tây, cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Đề cao vai trò và ý thức trách nhiệm, bổn phận cá nhân "vũ trụ nội mạc, phi phận sự" Ông Hi Văn thái độ tự trào, tự tôn độc đáo - Vào lồng mất tự do nhưng là phương diện để ông thể hiện tài năng và hoài bão → Ý thức cống hiến cao đẹp Điệp từ "khi" kết hợp thủ pháp liệt kê Danh vị xã hội Tham tán, Tổng đốc, Phủ doãn....→ tài thao lược, văn chương Chức vụ thay đổi liên tục, không chịu ở yên một vị trí nhất định → "ngất ngưởng" là lời tự khẳng định, sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và phong cách tài tử, phóng túng ⇒ Là một quân tử, sống tự tin, bản lĩnh, kiên trì với lí tưởng b. Ngất ngưởng khi về hưu Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không phật, không tiên, không vướng tục. Giải tổ chi niên tự hào vì trả xong món nợ với nhân dân. Thái độ Thay lọng, ngựa bằng bò. → Ngạo nghễ, trêu ngươi, coi thường dư luận, đạt đến độ cao của phẩm cách và tài trí Sự chuyển đổi cuộc đời kiếm cung → từ bi Sự chuyển đổi tâm trạng thanh thản, nhẹ nhỏm → ngậm ngùi Lối sống Lên chùa cùng đào hát→ khác người, khác đời. Hưởng lạc cầm, kì, thi, tửu. Được mất dương dương. Khen chê phơi phới → Lẽ thường tình ở đời. Không vướng tục → Thái độ thanh lạc, thỏa thích, phóng túng, tự do, xem nhẹ, coi thường được mất, hơn thua ở đời ⇒ Cuộc sống tự do tự tại, phóng khoáng vượt lên mọi thói tục của một bản lĩnh vững vàng, một nhân cách cứng cỏi → Là bậc tài tử phong lưu không ngần ngại khẳng định cá tính của mình c. Tuyên ngôn khẳng định cá tính Chẳng Trái, Nhạc, cũng phường Hàn, Phú Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Đặt mình ngang hàng với các bậc công thần, danh tướng→ tự hào về sự đóng góp cho đất nước Nghĩa vua tôi- vẹn đạo sơ chung khẳng định tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng vì dân vì nước ⇒ Tự hào, sảng khoái, tự tin thể hiện cái tôi cá nhân 02/07/2022 I. Dàn ý phân tích bài ca ngất ngưởng – đầy đủ và chi tiết nhấtII. Top 3 bài văn mẫu phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhấtNguyễn Công Trứ là nhà thơ có tài, với phong cách thơ luôn thể hiện một cuộc sống thanh bần, thích tự do, một tính cách ngang tàng, ngạo nghễ, một quan niệm xuất xử và hành lạc tưởng như mâu thuẫn nhưng lại rất thống nhất. Ông đã để lại cho hậu thể khoảng 150 tác phẩm trên nhiều thể loại nhưng thành công nhất ở thể loại hát nói – Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của nhà đang xem Phân tích bài bài ca ngất ngưởngNhằm giúp các bạn học sinh nắm vững kiến thức và đạt được kết quả cao trong học tập thì sau đây sẽ chọn lọc, tổng hợp cho các bạn top 3 bài mẫu phân tích tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhất. Cùng tham khảo ngay!Phân tích Bài ca ngất ngưởng hay nhấtI. Dàn ý phân tích bài ca ngất ngưởng – đầy đủ và chi tiết nhất1. Mở bài– Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc– Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ2. Thân bàia. Cảm hứng chủ đạo⇒ tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.⇒ Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, Tác giả có ý thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ 6 câu đầu– “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự” thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.– “Ông Hi Văn…vào lồng” Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng– Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình+ Tài năng Giỏi văn chương khi thủ khoa, Tài dùng binh thao lược⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng văn võ song toàn+ Khoe danh vị, xã hội hơn ngườiTham tán, Tổng đốc, Đại tướng bình định Trấn Tây, Phủ doãn Thừa Thiên⇒ Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.⇒ 6 câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúngc. 10 câu tiếp– Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.+ Đi chùa có gót tiên theo sau.⇒ Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng+ Bụt cũng nực cười thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng– Quan niệm sống+ “ Được mất … ngọn đông phong” Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian+ “Khi ca… khi tùng” tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .+ “ Không …tục” không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng⇒ Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giảd. 3 câu cuối+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung” Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”⇒ Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tàie. Đặc sắc nghệ thuật– Vận dụng thành công thể hát– Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng– Sử dụng điển tích, điển cố3. Kết bài– Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thânII. Top 3 bài văn mẫu phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhất1. Phân tích Bài ca ngất ngưởng – mẫu 1Nguyễn Công Trứ không chỉ là một vị quan mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Nguyễn Công Trứ sáng tác rất nhiều, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm và thông qua những sáng tác ấy hiện lên rõ nét phong cách độc đáo của ông. Và có thể nói, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” – tác phẩm được xem như bản tổng kết về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy “ngất ngưởng” chính là cảm hứng xuyên suốt toàn bộ bài thơ, nó xuất hiện bốn lần trong tác phẩm. Vậy từ “ngất ngưởng” trong bài thơ nên được hiểu như thế nào? Như chúng ta đã biết, “ngất ngưởng” là một từ láy dùng để chỉ độ cao – cao hơn người khác, vật khác và luôn ở trong trạng thái nghiêng ngả, chực đổ, nó không hoàn toàn vững nhưng cũng không thể nào đổ được. Tuy nhiên, trong tác phẩm, “ngất ngưởng” không phải được dùng với nghĩa ấy mà nó được sử dụng ở một tầng nghĩa khác, đó chính là lối sống, thái độ sống của tác giả. Và với cách hiểu đó, chúng ta sẽ thấy bài thơ có nhiều điều thú vị, hấp hết, trong sáu câu thơ đầu của bài thơ, tác giả đã thể hiện rõ nét sự ngất ngưởng khi ở chốn làm quan. Đầu tiên, sự ngất ngưởng ở chốn làm quan được thể hiện ở sự khẳng định vai trò, vị trí của chính mình trong trời đấtVũ trụ nội mạc phi phận sựÔng Hi Văn tài bộ đã vào lồngVới hai câu thơ nhưng tác giả đã cho thấy thái độ về vị trí của mình. Với ông, mọi việc trong vũ trụ, trời đất đều là việc của mình, đồng thời, ông coi việc nhập thế chính là cách để ông bộc lộ tài ba, trí tuệ của mình. Và để rồi, từ sự khẳng định ấy, ông đã phô diễn, đã khoe tài năng, danh vị của mìnhKhi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc ĐôngGồm thao lược đã nên tay ngất ngưởngLúc bình Tây cờ đại tướngCó khi về Phủ doãn Thừa bốn câu thơ, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt – Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông,… cùng bút pháp liệt kê và điệp ngữ, từ đó cho người đọc thấy rõ tài năng và danh vị của mình. Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ là người văn võ song toàn, đồng thời giữ nhiều chức vị quan trọng trong cuộc đời làm quan của mình. Như vậy, trong sáu câu thơ đầu nào thơ, tác giả đã nói về tài năng, khoa danh vị của mình với một thái độ đầy trang trọng, nhấn mạnh và đầy tự chỉ ngất ngưởng ở chốn làm quan, Nguyễn Công Trứ còn ngất ngưởng cả trong lối sống sau khi đã cáo quan về hưu, điều đó được thể hiện chân thực và rõ nét trong mười ba câu còn lại của bài thơ. Trước hết, lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi cáo quan về hưu được thể hiện ở lối sống khác người, khác đời, trái môn giải tổ chi niênĐạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởngHai câu thơ đã gợi lên trước mắt chúng ta dáng ngồi ngất nghểu của tác giả trên lưng con bò vàng được trang sức bằng đạc ngựa – một dáng vẻ khác người, như muốn khiêu khích, trêu ngươi. Và để rồi, khi thả hồn mình vào mây trắng, núi cao, dáng vẻ ngất ngưởng của tác giả vẫn không thay đổiKìa núi nọ phau phau mây trắngTay kiếm cung mà nên dạng từ biGót tiên theo đủng đỉnh một đôi gìBụt cũng nực cười ông ngất ngưởngCó lẽ trong văn học, chưa bao giờ chúng ta thấy một người nào đi vãn cảnh chùa giống như Nguyễn Công Trứ. Đi vãn cảnh chùa – nơi chốn thanh cao, tao nhã vậy mà lại mang theo một cô gái hầu. Cái dáng vẻ, cái lối sống ấy của ông khiến Bụt cũng phải chào thua, cũng phải bật cười. Đồng thời, trong lối sống của mình, Nguyễn Công Trứ không chú ý nhiều đến chuyện được, mất, khen chê bởi với ông, chuyện được, mất chẳng biết cái nào hơn cái mất dương dương người thái thượngKhen chê phơi phới ngọn đông thêm Hội Chứng Suy Nghĩ Tiêu Cực Là Gì? Nguyên Nhân, Biểu Hiện Và Phòng TránhThêm vào đó, ở Nguyễn Công Trứ ta còn thấy hiện lên lối sống tự do, thỏa chí, muốn gì làm này, không vướng tụcKhi tửu, khi ca, khi cắc, khi tùngKhông Phật, không Tiên, không vướng tụcNhư vậy, có thể thấy, thái độ, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ khi về hưu có những biểu hiện rất riêng. Tuy nhiên, ở ông ta vẫn thấy nhiều điểm nhất quán với cuộc sống trước đó, ông vẫn luôn là một bề tôi trung thành. Và để rồi, ông đã có một lời tự tổng kết về cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở trong những câu thơ khép lại bài thơChẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, PhúNghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chungTrong triều ai ngất ngưởng như ông!Tóm lại, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ với âm điệu khẳng định, lối nói đậm tính khẩu ngữ đã thêm một lần nữa cho chúng ta thấy vẻ đẹp nhân cách con người tác giả – một con người tài năng, lí tưởng sống hài hòa giữa cái vì đời và vì mình.

phân tích bài ca ngất ngưởng học sinh giỏi